Sở Khoa Học Công Nghệ    
 
 
 
Liên kết website
Skip portlet Portlet Menu
 
 
 
 
Khoa học công nghệ trong nước
(19/02/2020)

Thị trường EU với hơn 500 triệu người tiêu dùng đang là điểm đến đầy tiềm năng cho các sản phẩm, hàng hóa từ Việt Nam, trong đó phải kể đến sản phẩm nông sản. EU là khu vực kinh tế thịnh vượng với thu nhập bình quân đầu người lên tới 32.900 USD/người/năm. Sau khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Cộng đồng châu Âu vào tháng 10/1990, quan hệ thương mại giữa Việt Nam - EU không ngừng phát triển. Không những thế, EU còn trở thành đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực; trong đó, có hoạt động thương mại. Hiện nay, EU là một trong những thị trường xuất khẩu nông sản lớn nhất của Việt Nam. Việt Nam chỉ là một thị trường xuất khẩu nhỏ của EU với tỷ trọng 1,1% nhưng lại là một trong những nguồn cung nông sản quan trọng đối với khu vực này. Việt Nam cũng được xếp hạng đứng thứ 12 với khả năng cung ứng 2,2% nhu cầu tiêu thụ của thị trường EU, trên Thái Lan, New Zealand, Malaysia và cả Canada.

Từ sau hiệp định khung EU - Việt Nam đến nay, kim ngạch xuất khẩu nông sản sang thị trường EU liên tục tăng trưởng mạnh mẽ. Người dân EU có nhu cầu đa dạng, đề cao giá trị ẩm thực và rất ưa chuộng các sản phẩm nông sản nhiệt đới, EU lại nằm trong vùng ôn đới nên không có điều kiện sản xuất những mặt hàng nông sản nhiệt đới. Do đó trong thương mại song phương, Việt Nam có lợi thế tuyệt đối về sản xuất và xuất khẩu nông sản nhiệt đới sang thị trường khó tính nhưng đầy tiềm năng này.

Tham gia Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA), nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu sẽ được hưởng thuế suất 0% ngay từ khi Hiệp định có hiệu lực như cà phê, hạt tiêu, mật ong… Các sản phẩm chăn nuôi, rau củ, đồ gỗ cũng được hưởng các thuế suất ưu đãi. Đối với 0,3% kim ngạch xuất khẩu còn lại (bao gồm một số sản phẩm gạo, ngô ngọt, tỏi, nấm, đường…, EU cam kết mở rộng cửa cho Việt Nam theo hạn ngạch thuế quan (TRQs) với thuế nhập khẩu trong hạn ngạch là 0%. Riêng mặt hàng gạo tấm, thuế nhập khẩu sẽ được xóa bỏ theo lộ trình. Còn lại các sản phẩm từ gạo EU sẽ đưa thuế nhập khẩu về 0% trong vòng 7 năm. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng phải cam kết mở cửa thị trường hàng hóa của mình: Xóa bỏ thuế quan ngay sau khi EVFTA có hiệu lực cho hàng hóa của EU thuộc 65% số dòng thuế trong biểu thuế. Đối với mặt hàng cụ thể, thời gian xóa bỏ thuế sẽ theo lộ trình 3 năm, 7 năm, 9 năm hoặc 10 năm chiếm 99% số dòng thuế trong biểu thuế. Số dòng thuế còn lại sẽ áp dụng hạn ngạch thuế quan với mức thuế trong hạn ngạch là 0%.

Hiệp định EVFTA có hiệu lực sẽ giúp 99% dòng thuế nhập khẩu giữa hai bên được xóa bỏ trong vòng 7 đến 10 năm. Đây là mức cam kết cao nhất mà Việt Nam đạt được trong các hiệp định thương mại tự do đã ký. Ðáng lưu ý, nhiều mặt hàng được hưởng thuế suất 0% ngay khi hiệp định có hiệu lực như: Cà phê (hiện 0 - 11,5%); hạt tiêu (0 - 4%); mật ong tự nhiên (17,3%); khoảng 50% số dòng thuế cho thủy sản Việt Nam sẽ được xóa bỏ. Đối với gạo, EU dành tổng lượng hạn ngạch cho Việt Nam 80.000 tấn/năm đối với gạo xay xát, gạo chưa xay xát, thuế trong hạn ngạch 0%.

Khủng hoảng kinh tế thế giới đã khiến nhu cầu tiêu thụ nông sản nhập khẩu nói chung của khu vực EU (trong đó có nhập khẩu từ Việt Nam) giảm mạnh. Vài năm trở lại đây dù kim ngạch xuất khẩu sang khu vực này đã tăng trưởng trở lại nhưng những rào cản về tiêu chuẩn kỹ thuật ngày càng cao, xuất khẩu sang EU ngày càng khó khăn.

Các quy định pháp lý liên quan tới hàng rào kỹ thuật liên tục được EU rà soát, điều chỉnh. Đối với các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS), Việt Nam và EU đã đạt được thỏa thuận về một số nguyên tắc nhằm tạo điều kiện cho hoạt động thương mại đối với các sản phẩm động vật, thực vật. Tuy nhiên, EU có quan điểm khá cứng rắn về các vấn đề SPS và không có ý định hạ thấp các tiêu chuẩn này trong các FTA nên sẽ khó có ngoại lệ nào riêng cho Việt Nam. Cùng với đó là những nguy cơ về các vụ kiện thương mại, chống bán phá giá trợ cấp và tự vệ…

Theo quy định SPS của EU, tất cả các sản phẩm có nguồn gốc động vật xuất khẩu sang thị trường này đều bị kiểm tra tại các chốt kiểm soát ở biên giới theo hình thức kiểm tra ngẫu nhiên khoảng 10% số lượng lô hàng. Tuy nhiên, nếu một lô hàng bị phát hiện có vấn đề về SPS thì 10 lô hàng tiếp theo sẽ bị kiểm tra toàn bộ một cách kỹ lưỡng.

Đáng lưu ý, đối với sản phẩm có nguồn gốc động vật, chỉ có các đơn vị sản xuất nằm trong danh sách đảm bảo của cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu gửi sang EU và được EU chấp nhận mới được xuất khẩu. Hiện tại, chỉ có hai loại sản phẩm có nguồn gốc động vật ở Việt Nam được xuất khẩu sang EU là thủy sản và động vật thân mềm hai mảnh vỏ.

Đối với các sản phẩm có nguồn gốc thực vật, nước xuất khẩu phải tuân thủ các quy định về SPS của EU trong quá trình nuôi trồng sản xuất. Hàng xuất khẩu sang EU tuy không bị kiểm tra nghiêm ngặt như các sản phẩm có nguồn gốc từ động vật nhưng cũng sẽ bị kiểm tra ngẫu nhiên bởi các nước thành viên trong quá trình nhập cảnh hoặc sau khi đã bán ra thị trường.

EU cũng duy trì một hệ thống cảnh báo nhanh, chỉ cần một lô hàng có vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm thì ngay lập tức sẽ được thông báo trong toàn bộ EU và hàng hóa đó không thể tiếp tục lưu hành trong khu vực.

Mặt khác, EVFTA đặt ra quy tắc xuất xứ rất ngặt nghèo, tương đối chặt chẽ về các quy tắc xuất xứ. Hàng nông sản phải được sản xuất và trồng thuần túy tại Việt nam. EU sẽ không chấp nhận việc chúng ta nhập khẩu rồi chế biến và xuất khẩu sang EU. Điều đó đặt ra cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản của chúng ta sẽ phải đầu tư vào nguyên liệu, đầu tư vào chuỗi cung ứng sản phẩm nông sản của mình.

Mặc dù chính sách của EU là áp dụng chung thuế ở các nước thuộc EU, tuy nhiên thị hiếu và các tiêu chuẩn sản phẩm ở mỗi thị trường sẽ khác nhau, mỗi thị trường của EU sẽ đòi hỏi chặt chẽ về chất lượng sản phẩm. Việc đảm bảo được sự đồng nhất trong chất lượng sản phẩm là một vấn đề khó đặt ra cho nước ta.

Ngoài các vấn đề về tổ chức công nghệ, các doanh nghiệp phải hết sức chú ý đến là thông tin thị trường. Thị trường EU là một thị trường lớn, có nhiều cơ hội, nhưng trên thực tế, hàng hóa xuất khẩu sang thị trường này vẫn tập trung ở các nước lớn như Đức, Pháp, Ý…các thị trường nhỏ thì các doanh nghiệp của ta không quan tâm đến. Do vậy, doanh nghiệp cần phải xác định thị trường nào trong EU mà mình muốn thâm nhập thì có chiến lược cụ thể để xâm nhập vào thị trường mục tiêu đó.

Nông sản Việt Nam đa phần phát triển nhỏ lẻ, phân tán không theo quy hoạch nên việc quản lý và đầu tư phát triển hạ tầng khó khăn. Việc thiếu quy hoạch các vùng trồng, vật nuôi khiến hàng nông sản thường xuyên rơi vào tình trạng được mùa rớt giá kèm theo bản đồ vùng trồng nông sản manh mún khiến việc áp dụng quy trình sản xuất Global GAP - một tiêu chuẩn nghiêm ngặt từ thị trường EU liên tục gặp trở ngại.

Rào cản đầu tiên dẫn đến xuất khẩu nông sản sang thị trường EU gặp trở ngại là do thiếu tính liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp. Phần lớn nguyên liệu nông sản được thu mua từ nông dân, còn chỉ một tỷ lệ nhỏ là từ doanh nghiệp tự đầu tư hoặc mua từ các trang trại của nhà nước. Tuy nhiên, các vùng nguyên liệu nông sản lại xa nhà máy chế biến, chi phí vận chuyển lớn, nguyên liệu không đảm bảo các yêu cầu chất lượng nên khó có thể chế biến xuất khẩu được.

Hơn nữa, người nông dân cũng chưa được hướng dẫn kỹ về các biện pháp xử lý trong trồng trọt và chăn nuôi. Khu vực trồng rau quả rải rác, phân tán, khó xử lý kỹ thuật... thu hoạch chưa đồng loạt, sản phẩm không đồng đều, gây khó khăn cho việc chế biến, xuất khẩu sang thị trường vô cùng khó tính như EU. Đáng lưu ý, vẫn còn hiện tượng sử dụng các hóa chất không rõ nguồn gốc trong chế biến, bảo quản rau quả tươi. Không những thế, công nghệ sau thu hoạch của Việt Nam còn kém, rất ít tiến bộ kỹ thuật về lĩnh vực này được chuyển giao đến nông dân.Ngoài ra, việc thu hái và sơ chế bảo quản vẫn tiến hành thủ công là chính, công nghệ bảo quản và phương tiện vận chuyển còn thiếu, dẫn đến chất lượng sản phẩm thấp, tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch lên tới 25 - 30%. Việc thiếu các thiết bị vận chuyển lạnh như tàu lạnh hoặc container có thiết bị làm lạnh nên đã ảnh hưởng không ít tới khả năng xuất khẩu khối lượng lớn đến thị trường EU bởi rất xa về khoảng cách địa lý.

Mặt khác, khâu tổ chức, sản xuất chế biến, tiếp thị sản phẩm nông sản còn yếu, nhất là đối với mặt hàng rau quả cũng là hạn chế không nhỏ khi xuất khẩu vào thị trường này. Việt Nam có nhiều chủng loại rau quả rất ngon, có thương hiệu, rất nổi tiếng trong nước nhưng chưa được thị trường thế giới biết đến. Điều này cũng dễ hiểu bởi nông dân hoàn toàn thiếu thông tin thị trường, nhất là các tiêu chuẩn chất lượng. Do đó, việc điều tiết sản xuất gặp nhiều khó khăn và thiếu tính định hướng.

Hạn chế về năng lực chế biến chuyên sâu, chưa phát triển mạnh về thương hiệu nên xuất khẩu hàng nông sản, thực phẩm của Việt Nam dù nhiều về số lượng nhưng giá trị kim ngạch chưa tương xứng, lợi nhuận xuất khẩu phải chia sẻ qua nhiều khâu trung gian. Đặc biệt, nhiều nông sản được bán ra thị trường thế giới không có thương hiệu, nhãn mác, phải sử dụng thương hiệu nước ngoài đã gây bất lợi không nhỏ ảnh hưởng đến tiến trình tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của nông sản Việt Nam.

Làm thế nào để vượt rào cản?

Bên cạnh những giải pháp được đặt ra đối với các cơ quan quản lý Nhà nước như phát triển công nghiệp phụ trợ để đảm bảo yêu cầu về xuất xứ; hoàn thiện thể chế, phát triển năng lực công nghệ và quản lý; xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia theo hướng hài hòa hóa các quy định của các thị trường nhập khẩu khu vực và trên thế giới; xử lý nghiêm các hành vi gian lận, ảnh hưởng đến chất lượng hàng hóa nông sản, nhằm giữ uy tín cho hàng hóa nông sản của Việt Nam trên cả thị trường trong nước và quốc tế.

Các hiệp hội ngành hàng quan tâm bảo vệ quyền lợi chính đáng không chỉ cho toàn thể cộng đồng doanh nghiệp mà còn cho từng doanh nghiệp riêng lẻ, nhất là những vướng mắc liên quan đến hoạt động thanh tra, kiểm tra chồng chéo hay hình sự hóa các quan hệ dân sự, thúc đẩy hơn nữa việc hỗ trợ cho doanh nghiệp xúc tiến thương mại, đặc biệt là thông qua ứng dụng công nghệ số và hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu và triển khai các nội dung của Hiệp định sao cho phù hợp với doanh nghiệp thành viên.

Các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản cần chủ động tìm hiểu thông tin về EVFTA để nắm vững cam kết của Việt Nam nhất là các thông tin về ưu đãi thuế quan; bám sát lộ trình và các quy định của Hiệp định nhằm xây dựng kế hoạch đầu tư, sản xuất hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, tạo ra môi trường đầu tư cởi mở, thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp hai bên; tìm hướng hợp tác với các thị trường đối tác của Hiệp định để thu hút đầu tư trực tiếp vào Việt Nam nhằm tận dụng hiệu quả nguồn vốn và việc chuyển giao công nghệ từ các tập đoàn lớn.. Và cũng cần tính đến việc giữ thị phần trong nước, vì hàng ngoại sẽ tràn vào trong nước với giá rất cạnh tranh. Đây cũng chính là cơ hội tốt để các doanh nghiệp của ta tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng và khu vực toàn cầu.

Chỉ khi nào Việt Nam làm ra được sản phẩm với chất lượng tốt, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và đồng nhất, đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng của người dân EU thì chúng ta mới có thể tận dụng được các cơ hội mà EVFTA mang lại cho chúng ta.

NV

Trang1 trong 16
2
trong 16
3
trong 16
4 trong 16
5 trong 16
6 trong 16 7 trong 16 8 trong 16 9 trong 16 10 trong 16 ... 16 trong 16

 
 
 
 
Skip portlet Portlet Menu
Skip portlet Portlet Menu
Đang tải video..
Skip portlet Portlet Menu

Thông tin cần biết
  Skip portlet Portlet Menu
 
 
 
 
Chịu trách nhiệm: Phan Thị Yến Nhi - Phó Giám đốc - Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh An Giang.
Cơ quan chủ quản: Sở Khoa học và Công nghệ An Giang.
Giấy phép số: 02/GP-TTĐT ngày 27/10/2015 - Cơ quan cấp phép: Sở Thông tin và Truyền thông An Giang.
Điện thoại: (02963) 852212 - Fax: (02963) 854598 ** E-mail: sokhcn@angiang.gov.vn