SoTTTT AG - Chỉ số PCI là thước đo quan trọng để đánh giá mức độ thuận lợi về môi trường kinh doanh, đánh giá công tác quản lý và điều hành kinh tế của các tỉnh, thành phố trên cả nước nói chung và tỉnh An Giang nói riêng. Với quyết tâm cải thiện điểm số và vị trí xếp hạng về năng lực cạnh tranh, đưa địa phương trở lại nhóm có chất lượng điều hành “Khá” hoặc “Tốt” trong xếp hạng chất lượng điều hành kinh tế, tỉnh An Giang đã có nhiều sáng tạo, đổi mới và quyết liệt trong thực hiện các giải pháp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Trong những năm vừa qua, công tác chỉ đạo điều hành của tỉnh có sự quyết liệt, xuyên suốt và tiếp tục đổi mới, linh hoạt, nét nổi bật đó là Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo thực hiện có hiệu quả “bốn khâu đột phá” tạo nền tảng quan trọng xây dựng hình ảnh môi trường kinh doanh thuận lợi, công khai, minh bạch gồm :
(1) Quyết tâm thực hiện cải cách hành chính : Với trọng tâm là tập trung giải quyết thủ tục theo hướng giảm thủ tục, giảm thời gian, giảm chi phí cho nhà đầu tư, doanh nghiệp và nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các ngành, các cấp trong hệ thống cơ quan quản lý hành chính nhà nước của tỉnh rà soát và thực hiện giảm ít nhất 20% tổng thời gian giải quyết thủ tục hành chính. Đặc biệt, một số thủ tục cắt giảm đến 53% thời gian giải quyết như: đăng ký kinh doanh, đăng ký đầu tư, đăng ký và xóa thế chấp… Các thủ tục hành chính được thực hiện đảm bảo 4 bước là tiếp nhận, thẩm định, phê duyệt, trả kết quả đúng thời gian đã cam kết.
Thành lập Trung tâm Hành chính công tỉnh An Giang thành lập với chức năng làm đầu mối tập trung giải quyết và chịu trách nhiệm trong việc tiếp nhận, hướng dẫn và giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính cho tổ chức, cá nhân theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông thuộc thẩm quyền giải quyết của 19 Sở, ban, ngành bao gồm: Tư pháp, Kế hoạch và Đầu tư, Tài nguyên và Môi trường, Xây dựng, Giao thông vận tải, Công thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Lao động - Thương binh và Xã hội, Giáo dục và Đào tạo, Khoa học và Công nghệ, Nội vụ, Ngoại vụ, Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Tài chính, Thông tin và Truyền thông, Y tế, Thanh tra tỉnh, Ban Quản lý khu kinh tế và Ủy ban nhân dân tỉnh. Có tất cả 1.660 thủ tục hành chính của 173 lãnh vực giải quyết theo cơ chế 1 cửa liên thông được thực hiện tại Trung tâm hành chính công. Đây được xem là bước đột phá trong cải cách thủ tục hành chính, tiết kiệm thời gian và chi phí cho các tổ chức và cá nhân.
(2) Công tác hỗ trợ và giảm bớt chi phí cho doanh nghiệp ngày càng thiết thực, hiệu quả: trong năm 2017 và 6 tháng đầu năm 2018 đã tiếp nhận tổng cộng 328 đề xuất, kiến nghị của doanh nghiệp, đã xử lý đúng hạn 324 hồ sơ (đạt 98,78%), 04 hồ sơ trễ hạn (chiếm 1,22%). Từ đó, đã tạo tâm lý tin tưởng của doanh nghiệp đối với sự lãnh đạo, điều hành và kết quả giải quyết của Ủy ban nhân dân tỉnh đối với kiến nghị của doanh nghiệp. Công tác hỗ trợ doanh nghiệp được đẩy mạnh triển khai theo hình thức mở với nhiều hoạt động thiết thực, điển hình như hoạt động đối thoại doanh nghiệp (mỗi năm tổ chức 2 lần) và mô hình “Cà phê doanh nhân” được duy trì thường xuyên 02 tuần/lần vào ngày thứ sáu nhằm tạo cơ hội tiếp xúc, thu hẹp khoảng cách giữa doanh nghiệp với chính quyền địa phương, là kênh đối thoại trực tiếp của lãnh đạo tỉnh và các Sở, Ban ngành với cộng đồng doanh nghiệp để giải quyết kịp thời khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp.
(3) Thông tin luôn được công khai, minh bạch: Với mục tiêu xây dựng và từng bước cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh theo hướng thông thoáng, thân thiện, minh bạch, hấp dẫn; đồng thời siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính; chấn chỉnh lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả thực hiện công vụ, kết quả cụ thể : Qua 05 tháng thực hiện (từ tháng 8-12/2016), 8 đơn vị thí điểm (Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Công Thương, Sở Xây dựng, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Cục Thuế) đã tiếp nhận tổng cộng 13.092 hồ sơ của doanh nghiệp, đã xử lý đúng hạn 12.178 hồ sơ (đạt 93,02%) và 05 hồ sơ trễ hạn (đạt 0,04%), còn lại 909 hồ sơ còn trong thời gian giải quyết (chiếm 6,94% trong tổng số hồ sơ đã nhận).
Trong năm 2017, tất cả các Sở, Ban, ngành tỉnh và 11 huyện, thị xã, thành phố (trừ Công an, Quân sự, Tòa án, Viện Kiểm sát, Thanh tra tỉnh) đã tiếp nhận 1.018.320 hồ sơ của doanh nghiệp và người dân, đã xử lý đúng hạn 927.251 hồ sơ (đạt 91,06%), 105 hồ sơ trễ hạn (chiếm 0,01%), còn lại là những hồ sơ trong thời hạn xử lý.
Riêng 6 tháng đầu năm 2018, đã tiếp nhận tổng cộng 423.782 hồ sơ của doanh nghiệp và người dân, xử lý đúng hạn 395.567 hồ sơ (đạt 93,34%), có 102 hồ sơ trễ hạn (chiếm 0,02%), còn lại là những hồ sơ trong thời hạn xử lý.
(4) Công tác kiểm tra, giám sát quá trình triển khai được thực hiện thường xuyên, liên tục: Hàng năm, tỉnh đều chỉ đạo việc công bố, công khai Kế hoạch thanh tra, kiểm tra chung đối với doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh để tránh trùng lấp. Các sở, Ban, ngành và các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương cũng đã tăng cường quán triệt, kiểm tra, giám sát cán bộ công chức về đạo đức công vụ, cải cách hành chính, chống quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu. Tăng cường thanh tra công vụ; kiên quyết xử lý các cán bộ vi phạm quy trình xử lý hồ sơ, gây phiền hà cho doanh nghiệp. Thủ trưởng cơ quan, đơn vị phải chịu trách nhiệm về các vi phạm của công chức, viên chức trong phạm vi quản lý.
Kết quả sau 2 năm thực hiện Chương trình hành động trọng điểm của tỉnh cho thấy, thứ hạng năng lực cạnh tranh của tỉnh ngày càng tăng. Cụ thể, năm 2016 đạt 57,79 điểm, xếp 38/63 tỉnh thành, thì năm 2017 đạt 62,16 điểm, xếp 32/63 tỉnh thành, tăng 4,37 điểm, tăng 06 bậc so với năm 2016; qua đó khẳng định lại niềm tin, sự đánh giá hài lòng ngày càng cao và sự ghi nhận của cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư đối với những nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh.
Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phần nào hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của chỉ số PCI trong việc đo lường và đánh giá công tác quản lý, điều hành kinh tế cấp tỉnh trên các lĩnh vực có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Từ đó, chuyển từ tư duy quản lý sang phục vụ, tạo sự yên tâm cho doanh nghiệp đầu tư sản xuất – kinh doanh, mở rộng quy mô hoạt động và tiếp sức cùng tỉnh trong kêu gọi thêm nhiều doanh nghiệp khác đến đầu tư.
Công tác công khai kết quả giải quyết thủ tục hành chính, hồ sơ liên quan trực tiếp doanh nghiệp, nhà đầu tư, người dân của các Sở, Ban, ngành tỉnh và các huyện, thị xã, thành phố theo Kế hoạch 329/KH-UBND ngày 28/6/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh có tác dụng rất rõ nét đối với hoạt động của bộ máy công quyền. Qua đăng tải công khai, các cơ quan, đơn vị, cán bộ phụ trách có nỗ lực nhiều hơn trong việc giải quyết thủ tục hành chính cho người dân, doanh nghiệp. Qua từng tháng, tỷ lệ hồ sơ giải quyết đúng hạn đạt rất cao, trong khi tỷ lệ hồ sơ giải quyết trễ hạn rất thấp.
Bên cạnh, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, do đó nhằm tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh trong năm 2018, nhất là trong điều kiện có sự cạnh tranh giữa các tỉnh, thành phố trong cả nước càng ngày càng diễn ra quyết liệt, Tỉnh tiếp tục tập trung bám sát các chỉ đạo điều hành của Chính phủ về cải thiện môi trường kinh doanh (Nghị quyết số 19), về hỗ trợ doanh nghiệp (Nghị quyết số 35/NQ-CP), về cải cách thủ tục hành chính…; các chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, triển khai các nhiệm vụ cải thiện môi trường kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp. Nâng cao nhận thức và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị của tỉnh, nổ lực, quyết liệt triển khai công tác cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh; người đứng đầu các Sở, Ban, ngành, địa phương và các cơ quan đơn vị được giao chủ trì từng chỉ số thành phần phải chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân tỉnh về điểm số và thứ hạng thuộc trách nhiệm cơ quan mình.
Đối với các chỉ số giảm điểm và thứ hạng thấp, các đơn vị chủ trì cần có các giải pháp đột phá nhằm đạt mục tiêu theo yêu cầu của tỉnh; khẩn trương
nghiên cứu, chỉ đạo, ban hành kế hoạch với những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, thiết thực hiệu quả gắn với đổi mới cách làm để triển khai thực hiện hiệu quả, đạt được mục tiêu đã đề ra.
Nguồn BC số 441/BC-UBND ngày 17/7/2018